Saved Font

Trước/34Sau

Khai Thị Quyển 1- Hòa Thượng Tuyên Hóa

Chương 32: Bốn Ðạo Tràng Ở Tây-Phương: Mỹ Và Gia-Nã-Ðại

Màu Nền
Màu Chữ
Font Chữ
Cỡ Chữ
Kiểu Màu
Bốn Ðạo Tràng ở Tây-Phương: Mỹ và Gia-Nã-Ðại

Bốn Ðại Bồ-Tát đến Phương-tây để hoằng dương Phật-pháp, giúp đạo Phật phát triển rực rỡ.

Ở Trung Hoa có bốn đạo tràng:

1. Núi Ngũ Ðài tại tỉnh Sơn Tây là đạo tràng của Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát.

2. Núi Nga My tại tỉnh Tứ Xuyên là đạo tràng của Ngài Phổ Hiền Bồ-tát.

3. Núi Cửu Hoa tại tỉnh An Hội là đạo tràng của Ngài Ðịa Tạng Bồ-tát.

4. Núi Phổ Ðà tại tỉnh Triết Giang là đạo tràng của Ngài Quán Âm Bồ-tát.

Bây giờ ở Mỹ và Gia-Nã-Ðại (Canada) là hai nước lớn cũng có bốn đạo tràng thuộc về Tổng-hội Phật-giáo Pháp-giới, đây là căn cứ địa để hoằng Pháp.

1. Vạn Phật Thánh Thành là đạo tràng của Ngài Quán Thế Âm Bồ-tát, tôn Quán Thế Âm Bồ-tát làm chủ, Ðịa Tạng Bồ-tát làm phụ.

2. Ở Los Angeles là đạo tràng của đức Ðịa Tạng Bồ-tát, tôn Ngài Ðịa Tạng Vương Bồ-tát làm chủ, Quán Thế Âm Bồ-tát làm phụ.

3. Tại Seatle là đạo tràng của Phổ Hiền Bồ-tát, tôn Phổ Hiền Bồtát làm chủ, Văn Thù Bồ-tát làm phụ.

4. Tại Vancouver là đạo tràng của Văn Thù Bồ-tát, tôn Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát làm chủ, Phổ Hiền Bồ-tát làm phụ.

Bốn đại Bồ-tát đến phương tây để hoằng dương Phật-pháp, giúp Phật-giáo phát triển rực rỡ. Mỗi người, ai tin Phật-giáo thì có thể tiêu trừ tham, sân, si (tam độc). Không tham, không sân, không si thì tâm địa sẽ sáng suốt, thế giới sẽ hòa bình, mãi mãi không còn chiến tranh nữa.

Những ai muốn triều bái Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát thì mời tới Vancouver. Nếu muốn triều bái Phổ Hiền Bồ-tát thì mời tới Seatle. Nếu muốn triều bái Quán Thế Âm Bồ-tát thì mời tới Vạn Phật Thánh Thành. Nếu muốn triều bái Ðịa Tạng Vương Bồ-tát thì mới tới Los Angeles. Hy vọng các Phật-tử có tâm kiên thành cung kính triều bái tứ đại Bồ-tát, và dụng công tu học Phật-pháp.

Xuất Gia là Chuyện của Bậc Ðại Trượng Phu

Ðại trượng phu là kẻ có tinh thần kiên nhẫn không thối lui, khắc phục hết mọi gian khổ.

Ở đời, xuất gia là chuyện hết sức hy hữu, cũng là chuyện con người khó thấu đáo. Vì sao xuất gia thì nhất định phải chịu khổ? Bởi vì xuất gia thì không còn làm chuyện nam nữ luyến ái, không được khiêu vũ, và cũng không được ăn uống chơi bời nhậu nhẹt. Phàm nếu muốn trở thành bậc xuất chúng anh tài thì phải nhẫn chịu những điều người khác không thể nhẫn chịu được, phải chấp nhận nổi khổ mà người khác không thể nhận nổi. Chỉ có tu luyện như vậy mới thành thân kim cang bất hoại. Cho nên nói:

Bất kinh nhất phiên hàn triệt cốt, Chẩm đắc mai hoa phổ tỷ hương?

Nghĩa là:

Không qua một lần lạnh thấu xương,

Sao đặng hoa mai nở ngát hương?

Người xuất gia tâm cần chuẩn bị: Xuất gia là vì muốn liễu sinh thoát tử; muốn vĩnh viễn không còn thọ nổi khổ của sinh tử luân hồi. Dù đối diện với đủ thứ khổ ải vẫn không lo sợ, càng khổ càng tốt. Khi đụng đến đau khổ chớ đầu hàng, cải biến ý hướng ban đầu, tìm cách trở đầu thối chuyển. Mình cần phải có tinh thần kiên nhẫn, bất thối, phải khắc phục mọi khổ sở gian nan, đó mới là bậc đại trượng phu. Cho nên xuất gia không phải là chuyện mà mọi người ai cũng làm được, dù là tướng tá chưa chắc đã làm đặng. Do đó nói rằng: "Xuất gia là chuyện của thần thánh," không phải là chuyện của những thứ ruồi muỗi tép riêu. Có câu rằng:

Thọ khổ tức liễu khổ, hưởng phước thị tiêu phước.

Nghĩa là:

Chịu khổ mới hết khổ, hưởng phước là tiêu phước.

Quý-vị coi các vị cao tăng đại đức thời xưa đều do tu khổ hạnh mà giác ngộ. Không vị Tổ-sư nào do sự hưởng thọ sung sướng mà khai ngộ cả. Quý-vị lùng khắp bộ Ðại Tạng Kinh cũng không tìm được vị nào cả.

Chúng ta cần phải có tâm nhẫn nại thì mới được lợi ích nơi pháp hỷ sung mãn. Phải có tâm khắc khổ thì mới đắc trí huệ giác ngộ. Không thể đi ngược lại với Phật-đạo. Mình phải luôn luôn nhiếp tâm chuyên ý dụng công, đem tâm niệm thu hồi trở lại, không có vọng tưởng vẫn vơ, đó chính là quản thúc "tâm như ngựa, ý như khỉ." Ðừng để tâm mình chạy theo ngoại cảnh.

Khi xuất gia tu Ðạo thì trước hết phải trừ khử lòng tham, phá bỏ sân hận, diệt đi si mê. Tận trừ sạch sẽ ba thứ độc đó thì trí huệ tự nhiên hiện tiền. Làm sao có thể quét sạch những thứ đó một cách triệt để? Tức là dùng Giới, Ðịnh, Huệ (tam vô lậu học) để làm công cụ. Giới thì trị được tham, Ðịnh thì trị sân, huệ thì trị si. Cho nên người xuất gia gọi là "Sa-Môn." Sa-Môn dịch ra nghĩa là "Cần Tức," tức là "Cần tu Giới, Ðịnh, Huệ, tức diệt tham, sân, si." Tức là siêng năng giữ Giới, Ðịnh, Huệ, trừ diệt tham, sân, si. Nếu mọi người ai cũng hết tham sân si, thì thế giới sẽ hòa bình.

Giảng ngày 18 tháng 11 năm 1983

Trước/34Sau

Theo Dõi Bình Luận